Tư Tưởng Thiền Tông Việt Nam - Như Hùng

15/06/20173:25 CH(Xem: 3933)
Tư Tưởng Thiền Tông Việt Nam - Như Hùng

                   
TƯ TƯỞNG THIỀN TÔNG VIỆT NAM

 Như Hùng

   (Tiếp theo Trúc Lâm 66)


     Hình ảnh những thiền sư đi vào cuộc đời hóa độ, chưa hề mang theo kiến thức để rao giảng mời gọi, chỉ có dòng suy tư tuệ giác thường xuyên bùng lên soi sáng màn đêm mở ra cánh cửa giác ngộ. Thông thường, những gì xuất phát đến từ hai đối cực, cái đó dễ nghiêng hẳn vào một phía và phía khác là điều bất lợi, dù nằm trong lãnh vực tâm linh cũng không ngoại lệ. Những ai còn thấy có vị trí để đạt, còn phải mang theo hành trang để rao giảng, kẻ đó chỉ mới đạt được cái vị trí ấy mà thôi. Bởi lẽ, bản thể vị diệu cùng khắp của giác ngộ, không có niết bàn để trụ, không có chỗ để dừng chân, không có quốc độ để lưu lại.

 

     Thiền luôn khước từ những ý lực nào còn mang nặng kiến thức, tầm nhìn, dù đó là công án giá trị liên thành, sự chuẩn bị cận kề, không chịu vứt để tự tại thong dong, cho dù là những hành trang tối cần để mở cánh cửa cuối cùng. Thiền vốn là con đường của không đường, cánh cửa không môn không lối, không hề vận hành qua thời gian, tâm thức, một thứ ánh sáng siêu việt soi thấu trong tận cùng hố thẩm hoang liêu. Nó sẽ xa thăm thẳm muôn trượng nếu cố tình cán mức, ngược lại thì rất gần.

 

     Ta có thể tìm những hình ảnh độc đáo nầy xuyên qua cung cách đi vào tâm linh thực chứng mà những thiền sư đã từng vượt qua, đã từng tự tại thong dong.

 

     Thiền sư Vân Phong (? - 956) là học trò của thiền sư Thiện Hội một hôm Thiện Hội bảo sư:

     - Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt

     Sư hỏi: Khi sống, chết đến làm sao tránh được

     - Thiện Hội đáp: Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh. Thế nào là chỗ không sống chết?

 

     - Ngay trong sống chết nhận lấy mới được. Làm sao mà hiểu

     - Ngươi hãy đi, chiều sẽ đến

      Chiều sư lại vào, Thiện Hội nói

     - Đợi sáng mai, chúng sẽ chứng minh cho ngươi

     Sư hoát nhiên đại ngộ sụp xuống lạy.

 

     Bản chất giác ngộ là sự tự do tuyệt đối siêu việt ra ngoài hình thể nhận biết, hễ còn thu hẹp vào tri thức, vào những lý do, dù có uyên bác đa năng lỗi lạc, vẫn không thoát ra ngoài vòng kềm tỏa của hý luận vô minh.

 

     Sống chết là việc lớn cần phải thấu triệt, đừng chia đôi nó ra làm hai, để từ đó khởi nên tham đắm lo sợ, nếu tổng lại làm một thể một niệm nhất như, thì sự sống cân bằng với chết và chết không có nghĩa là hết, mà là sự tái sinh ở dạng khác, đồng nghĩa với sống. Cả hai chỉ là một, trạng thái hành hoạt và cảnh giới có khác nhau, tuy nhiên đều diễn tả một cái, và cái ấy chính là điều ta hay nương vào sự phân tích cố hữu của lý trí để lập nên. Trong ta chưa ai đủ thẩm quyền vén mở cái chết ngay trong sự sống mà không dùng đến biện luận của lý trí. Nếu ta đoạn tuyệt và không dùng đến con đường này, tự nhiên đến đi như thế, tức là ta khám phá ra cái cùng tuyệt rồi vậy.

 

     Nếu ta đặt nó vào phương trình rồi dùng trí năng thông tục để phân chia lý giải, như vậy không khéo ta là đối tượng trước nhất để nó khai quật loại trừ, trừ khi ta quyết không tạo nên và chẳng cần đáp án, dù ta có quyền nghiêng về cả hai nhưng không đưa lên hàng đầu để giải quyết. Những tính toán đè nặng của hai vấn đề này khiến ta lặn hụp vẫy vùng chôn chặt ở đó, thật sự là vô ích nếu cả sức lực bình sanh, ta dùng chỉ để vùng vẫy lẩn quẩn và chết ngộp trong ấy. Cứ để nguyên ở đó, nếu ta không đủ nghị lựcsức mạnh vượt thắng, trong cùng một lúc hất tung nó bay bổng ra ngoài tâm ý. Ta vẫn có thể tìm một thông lộ khác để đi lại rong chơi, nhưng phải nhớ hành động nào cũng không thể tách rời nó được, vì cái niệm ấy khởi lên thì nó đã bám theo rồi mà ta không hay biết. Khi ta hiểu một cách minh bạch rõ ràng, sống chết đó là điều tự nhiên như nhiên vốn dĩ như thế, không một ai đủ thẩm quyền làm khác đi được, chỉ có chính ta chủ nhân của sinh tửniết bàn.

 

     Cho cùng, điều quan trọng nhưng sẽ không quan trọng, nếu ta thấu rõ cùng lý của đắc vô đắc. Và đâu là khuôn mặt thật sự chung quanh vấn đề nầy?

     Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 – 1190) một hôm đệ tửThường Chiếu vào thất đem kinh Kim Cang hỏi:

     - “Pháp Như Lai đã được, pháp này không thật không hư” ấy là pháp gì?

     Sư đáp: Ngươi chớ huỷ báng Như Lai

     - Hòa Thượng chớ huỷ báng kinh nói?

     Kinh này là ai nói?

     - Hòa Thượng chớ đùa với con, đâu không phải là Phật nói hay sao?

     Nếu là Phật nói, vì sao trong kinh lại nói: “Nếu nói Như Lai có nói pháp tức là huỷ bangPhật?”

     Thường Chiếu không đáp được.

     Trước khi thị tịch Thiền sư để lại bài kệ sau:

     Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
  Được vô sanh, sao nói vô sanh
Làm trai có chí xông trời thẳm
Chớ dẫm Như Lai vết đã qua.
(Thiền sư Thích Thanh Từ dịch)
 
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh
Nam nhi tự hữu xung thiện chí
Hữu hướng Như Lai hành xứ hành.
                                                   (Còn tiếp)                           

  Như Hùng

 

Trái Tim Bất Diệt
 
Bạn ơi! Nghe chăng tiếng thở trái tim bất diệt
Ánh trăng hững hờ bước nhẹ qua hư không
Người nhập đại định quán thông hạnh nguyện
Chuông chùa vang vọng chiêu cảm mênh mông
 
Bạn ơi! Nghe chăng tiếng thở trái tim bất diệt
Sức sống hành trình nối kết thiện duyên
Tâm phát nguyện trí tuệ bất phân biên giới
Trái tim bồ tát tồn tại nơi chốn am thiền
 
Trái tim bất diệt vẫn yêu dòng sinh diệt
Chung quanh người ngồi khấn nguyện cầu kinh
Lửa tam muội thiêu đốt huyễn thân tứ đại
Phật tánh hiển bày soi sáng quyền lực vô minh
 
Bạn ơi! Nghe chăng tiếng thở trái tim bất diệt
Hơn một lần đánh động tâm thức lương tri
Lịch sử sang trang ấn tượng lửa hồng còn đó
Bồ Tát Quảng Đức trái tim bất khả tư nghì
 
Thanh Trí Cao