Chợt Nhớ Về Một Dòng Sông - Nguyễn Quang Đức

15/06/20178:20 CH(Xem: 3349)
Chợt Nhớ Về Một Dòng Sông - Nguyễn Quang Đức

Chợt Nhớ Về Một Dòng  Sông

                                               Nguyễn Quang Đức


MINNESOTA, SÔNG NƯỚC HỮU TÌNH

 

Minnesota, tiểu bang “Vạn Hồ” (Ten Thousands Lakes), nằm sát giáp ranh của nước Mỹ và Canada với dòng sông Rainy chảy uốn khúc dọc theo biên giới, tạo nên một quang cảnh thật thơ mộng và hiền hòa với màu xanh tươi của cây lá khắp mọi nơi và sự mênh mông của sông nước.  Cùng với Công Viên Quốc GiaVoyageurs National Park” cách thị trấn International Falls không xa, Minnesota là một thiên đường thu hút những tay câu cá, chèo thuyền, những người thích thiên nhiên, ngắm nhìn chim muông và thưởng thức vẻ đẹp của các loài hoa dại, toả sắc hương vào mùa xuân hay mùa hè.  Đến với Voyageurs, du khách sẽ một thoáng cảm nhận được sự trầm lặng, lắng động với cảnh vật thật thanh bình nơi đây, bỏ lại sau lưng những ưu tư của dòng đời vất vả ngược xuôi.  Một cơn gió thoảng, tiếng thông reo, làn sóng rì rào vỗ vào bờ và sự vô biên của mặt hồ phẳng lặng … Một chút gì đó thật mộc mạc.  Một chút gì đó thật thanh bìnhĐơn giản nhưng thật quyến rũ!  Mời các bạn hãy cùng chúng tôi tham quan Voyageurs National Park …

 

Rainy Lake Visitor Center (1761 Town Road 342, International Falls, MN 56649), là một trong ba trạm hướng dẫn du khách, cách thị trấn International Falls 11 miles về hướng Đông.  Trạm hướng dẫn này mở cửa quanh năm cho du khách với phòng vệ sinh sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi bên trong.  Nơi đây có cả một phòng triển lãm xinh xắn, kệ hàng bán sách và đồ lưu niệm, quầy hướng dẫn du khách và kể cả một rạp chiếu phim cho du khách tìm hiểu thêm về lịch sử của công viên nơi đây.  Bên ngoài trạm hướng dẫn, sát bên bờ hồ, còn có một khu vườn xinh xắn để du khách tản bộ, ngắm bông hoa và các loài dâu (berries) đang vào mùa.  Tiện dịp, du khách lần theo con đường mòn dài nửa mile được đắp một phần để đi đến hai địa điểm cuối, phóng tầm nhìn quang cảnh đa dạng của khu rừng cùng với các vùng đầm lầy.  Để khám phá hơn nữa, du khách có thể đặt vé trước trên mạng hay gọi điện thoại để ghi danh bước lên tàu du lịch “Voyageur Tour Boat”, du ngoạn hồ Rainy Lake truy tìm những tổ chim ưng sống độngquan sát đời sống hoang dã của chim muông và các động vật sống trong môi trường thiên nhiên của chúng.

 

Rời Rainy Lake Visitor Center, nếu từ thị trấn International Falls, trạm dừng chân kế cho du khách không thể bỏ qua đó là Kabetogama Lake Visitor Center (Gappa Road, Kabetogama, MN 56669), đẹp tựa như một tranh vẽ với sự hài hòa của màu sắc, hoa cỏ và ánh sáng.  Ở một tầm nhìn xa, trạm Kabetogama trông tựa như một nhà thủy tạ nằm nổi trên mặt hồ với các cầu tàu làm nơi neo thuyền nằm kế cận nhau.  Bên ngoài trạm hướng dẫn còn có cả khu picnic, bãi cỏ xanh mướt với những cụm hoa trắng lấm chấm xen kẽ với hoa vàng, bãi đậu xe thật rộng với chỗ hạ thủy cho tàu máy được xe kéo tới và, đặc biệt hơn hết, một mũi đất kéo dài ra hồ.  Lần theo mũi đất, du khách có dịp tận hưởng làn gió mát lùa vào, lắng nghe tiếng sóng vỗ nhịp nhàng vào ghềnh đá trắng, ngắm nhìn mặt hồ phẳng lặng hay say sưa chụp hình các bông hoa dại lả lơi tô điểm cho các phiến đá nằm chồng chất lên nhau với những rêu màu cam.  Du khách cũng có dịp ngắm nhìn một loài cò xanh, blue heroine, xoải cánh nhẹ nhàng đáp xuống mũi đất, đứng yên bất động, chăm chú nhìn vào mặt hồ đợi đúng thời cơ để bắt mồi.  Cảnh hoàng hôn nơi đây thật tuyệt đẹp.  Những tia nắng vàng cuối ngày rọi chiếu xuyên qua hàng thông làm ánh lên màu vàng cam từ mặt tường của ngôi nhà nghỉ mát ở một bên bờ hồ.  Theo ánh sáng chạng vạng, những lằn gạch trắng đen từ từ hiện rõ nét lên mặt hồ phẳng lặng tưởng chừng như có ai sơn phết lên trên một tờ giấy khổng lồ.  Bầu trời ửng đỏ, dọi bóng xuống mặt hồ hợp cùng bóng đen của rặng thông tạo thành một bức tranh phản chiếu, lung linh.  Cơn gió mát thoáng qua làm mặt hồ gợn lăn tăn những cơn sóng nhẹ.  Bóng đen dần phủ kín. 

 

Trạm dừng chân kế tiếp, Ash River Visitor Center (Mead Wood Road, Orr, MN 55771), là một nơi lý tưởng để du khách có dịp mua vé lên tàu đi tham quan, tận hưởng cảnh thiên nhiên hằng giờ qua các đảo nhỏ nằm rải rác trong hồ.  Ra khỏi xa lộ 53 hướng về phía Nam của hồ Kabetogama, du khách tiếp tục cuộc hành trình theo một con lộ dài với thắng cảnh hai bên đường thật cuốn hút trước khi quẹo trái vào đường Mead Wood để vào trạm.  Vào giữa tháng 7, những bông hoa vàng, trắng và tím nở rộ sẽ khiến du khách không khỏi trầm trồ thưởng thức và nôn nóng tìm chỗ dừng xe hai bên lề để chụp vội những tấm hình ghi lại cảnh thiên nhiên thật thơ mộng và rực rỡ với sắc màu ở nơi đây.  Hun hút theo con đường, những thảm cỏ xanh mướt cùng những rặng thông xanh rậm lá và những cụm hoa vàng sẽ là những điểm hấp dẫn du khách tìm về nơi đây khi tuyết còn sót lại của mùa đông tan đi dưới ánh nắng chứa đầy sức sống của mùa xuân hay đầu hạ.  Mọc cạnh vách đá bên đường, những nhánh lá mảnh mai bám vào vách hay buông mình rủ xuống với những đóa hoa vào độ rực rỡ, tô điểm cho màu nền trắng xanh của đá.  Hương thơm của các loài hoa theo làn gió hấp dẫn các chú ong mật kéo tới và bay vo ve khắp mọi nơiVượt qua chặng đường muôn màu muôn sắc đó, du khách sẽ tìm thấy chỗ đậu xe rộng rãi để thám hiểm những thắng cảnh xung quanh trạm hướng dẫn du khách Ash River với di tích lịch sử Meadwood Lodge.

 

Theo lối mòn từ trạm Ash River, du khách sẽ cảm nhận ngay sự thanh bình và êm dịu qua hàng thông xanh, bãi cát trắng nên thơ ven hồ với những khúc gỗ trôi dạt, làn nước trong vắt, một ốc đảo nằm cách bờ hồ không xa và sự bao la của mặt nước, kéo dài đến tận đường chân trời.  Những lối đi được lót nền bằng gỗ nhô ra hồ làm nơi neo tàu, ngồi câu cá hay để du khách có dịp đung đưa đôi chân bỏ thòng xuống mặt nước để cảm nhận cái mát lạnh của nước.  Trèo lên những ghềnh đá cao với cỏ xanh và hoa dại, du khách có dịp phóng tầm nhìn 360 độ, quan sát cảnh hồ Kabetogama rộng mở với những chuyến  tàu chở khách du lịch du ngoạn hay ngắm nhìn những con thuyền câu thấp thoáng.  Một điều lưu ý cho du khách đến đây vào cuối hè, những tuần cuối tháng 9, trạm Ash River sẽ đóng cửa cho đến tuần cuối của tháng 5 năm sau.

 

Rời trạm Ash River Visitor Center, du khách có thể lái xe tiếp đến dòng sông Ash, bắt nguồn từ phía Nam của hồ Kabetogama, để đến khu công cộng ven sông nơi du khách được phép kéo tàu câu cá xuống nước.  Nhánh sông chảy ngang thật tươi mát với màu xanh của hàng thông hai bên bờ, nên thơ với cảnh cầu tàu bằng gỗ nhô ra sông, rực rỡ với từng cụm bông súng màu trắng trên nền lá màu xanh với chùm rễ màu nâu trôi dạt mờ ảo dưới làn nước và gợi một chút gì đó thật thân thương của quê hương qua làn gió thổi rạp rặng phi lao mọc ven bờ.  Lay động theo từng cơn gió thổi, mặt nước dợn lên những cơn sóng lăn tăn, róc rách lùa vào bờ.  Ánh nắng của mặt trời dọi xuống hồ làm mặt nước ánh lên lấp lánh như những vì sao trên dãy Ngân Hà.  Xa xa, hai chiếc thuyền độc mộc nhấp nhô trên sông với nhịp chèo khoan thai.  Những ưu tư của cuộc sống tạm biến mất, nhường bước cho những phút giây hiện tại thật êm đềm trên vùng sông nước hữu tình.  Gió vẫn thổi vi vu.  Mọi vật chìm đắm trong sự an bình … Một thoáng chỉ còn là một kỷ niệm thật đẹp.

 

HỒI TƯỞNG

Tuổi thơ của tôi đã được nuôi dưỡng với những kỷ niệm thật thân thương qua dòng chảy hiền hòa của một nhánh sông Cửu Long và qua những tháng ngày cùng đùa nghịch tắm mưa với lũ trẻ trong xóm tại tỉnh Mỹ Tho, Việt Nam.  Do vậy, khi đi bất cứ nơi nào và cho dù chỉ là một thoáng bắt gặp hình ảnh một dòng sông lững lờ chảy qua nhưng những hình ảnh từ ký ức trong tôi đều như muốn tuông trào, nương theo làn gió đem lại sự êm ả của tuổi thơ, hồn nhiên với cuộc sống gần gũi với thiên nhiên và môt cảm giác thật hạnh phúc – khi được sống trong một vùng trời thanh bình với nắng ấm chan hòa và một làng xóm với những con người sống đời bình dị, chơn chất.

 

Kỷ niệm thật mộc mạc khi lũ trẻ cùng tụ tập, ngồi quây quần trên một “cầu mát”, một cây cầu xi măng cốt sắt xây nhô ra bờ sông hóng gió, vào những đêm trăng sáng để cùng nhau say sưa lắng nghe câu chuyện kể về huyền thoại của một loài rắn chúa ngậm ngọc, bị dẫn dụ phải nhả viên ngọc ra khi nuốt con gà luộc “cúng” cho nó.  Câu chuyện thật “dí dỏm” với tính cách khôi hài của nó, và dĩ nhiên, không có đứa bé nào bị “mắc mưu” vì tìm đâu ra con gà luộc để cúng!  Hay một “kỳ tích” biết bơi qua việc “cho chuồn chuồn cắn rún” mà hầu như hầu hết mọi đứa bé đều tin là như vậy cho đến khi thử … Chuyện ngâm cỏ cứu với rượu đế, xoa lên tay làm thuốc cho rắn không tới gần, và chúng tôi đã theo “công thức” đó nhưng không có dịp “thực hành.”  Hay ngây ngô nhìn một con rắn “có râu,” một loài rắn sống gần bờ sông, thật lạ lùng khi thấy các ông thợ trong ty công chánh sát bên bắt nó nhưng không dám làm đồ nhậu.  Một lúc khác, cả bọn lại bu quanh một con rắn hổ đang cuộn mình mà không biết sợ là gì!  Có lần tôi cùng người anh kế tặng ông gác ty công chánh một hộp sữa khi thấy ông gầy còm thật tội nghiệp.  Cũng nhờ vậy, ông đã kể cho hai anh em chúng tôi nghe về một huyền thoại khác của “rồng hút nước,” hào hứng như một câu chuyện cổ tích!  Đến khi lớn khôn, tôi mới biết đây chỉ là một hiện tượng tự nhiên của con trốt hút nước lên trên không.  Có lúc tuy sợ nhưng do tánh tò mò, chúng tôi theo lũ trẻ con trong xóm lân la đến nhà một người ở xóm xa nơi có một pháp sư đội khăn điều đang làm phép “trừ tà.”  Tuổi thơ là như vậy, tinh khôi như một tờ giấy trắng và ghi lại từng sự kiện, lưu trữ trong ký ức để một mai hiểu lại cho rõ.

 

Theo thủy triều lên xuống của con sông, chúng tôi đã hòa mình vào cùng với dòng chảy, lênh đênh trôi dạt trên các phao nhựa đặc hay chỉ là ruột bánh xe vận tải được bơm lên, mặc dù không biết bơi, hay đi dọc theo bờ sông, lật từng viên đá, miếng gạch hay các lon nằm ngổn ngang dưới đáy để bắt cá bóng, cua hay tôm tích vào những khi nước cạn.  Ba tháng mùa hè là một thời gian thần tiên cho ba anh em chúng tôi được dịp vui chơi trọn vẹn với lũ trẻ trong xóm, ngồi tư lự câu cá với những cây cần câu “tự chế,” vỏn vẹn chỉ là một nhánh cây, dây cước và lưỡi câu hay rượt đuổi nhau, khúc khích cười từ đầu xóm đến cuối xóm.  Chúng tôi đã biết được đâu là cái đau trên thân khi câu được con cá chốt và bị ngạnh của nó đâm vào tay, đâu là cái rũ rượi khi tập tểnh bơi và bị sặc nước và đâu là sự hồi hộp khi phải bò từng bước trên một cầu tàu bằng gỗ với những khoảng không còn thanh gát để ngồi đung đưa ở phần cuối cây cầu, ngắm nhìn lục bình trôi hay chỉ để xem những anh lớn câu được con cá nào chưa.

 

Nhà của chúng tôi ở thời đó là một biệt thự cấp cho hàng Trưởng Ty Công Chánh gồm 52 cánh cửa sổ, nằm gần sát bờ sông với bực thềm tam cấp xây thật cao, đề phòng khi mực nước sông tràn sâu vào bờ, và cửa lớn phía sau trổ hướng về phía bờ sông, đem lại cái mát lạnh trong không khí.  Ngôi nhà này đã là một nguồn cảm hứng bất tận cho anh em chúng tôi ôn lại những kỷ niệm thật đẹp của thời thơ ấu và cũng là một nơi chốn cho chúng tôi có dịp hòa đồng cùng lũ trẻ hàng xóm chơi trò cút bắt ngay trong nhà.  Với trần cao thoáng mát và vào những trưa hè oi bức, tiếng sóng vỗ nhẹ vào bờ rì rào hợp cùng tiếng vi vu của gió theo hàng dừa đong đưa bên bờ sông đã là những giai điệu êm ả dỗ chúng tôi sâu vào giấc nồng của giấc ngủ trưa.  Cũng từ ngôi nhà này, chúng tôi đã trải nghiệm đâu là nỗi kinh hoàng của bom đạn chiến tranh khi nghe tiếng còi hụ báo động xé tan màn đêm, nơm nớp lo sợ cùng gia đình chui vội xuống hầm tránh bom xây ngay trong nhà.  Có lần, nhà của chúng tôi đã bị đạn “mọt chê” phá nát la phông nhưng do chúng tôi ngủ ở tầng dưới và trần lầu cao nên cả gia đình không bị hề hấn gì.  Một kỷ niệm khác về ngôi nhà đó là gian phòng chứa sách với vách tôn nhựa làm tường đặt trong một hành lang thật dài dưới lầu mà anh em chúng tôi đã lẻn bò vào trong, bắt chước tập tành đọc truyện chưởng khi còn rất nhỏ và, dĩ nhiên, không thể nào thấu hiểu được những từ ngữ lắc léo dùng trong chuyện.

Hầu như mọi trò chơi của lũ trẻ trong xóm anh em chúng tôi đều tham dự đủ.  Cùng lũ trẻ trong xóm, anh em chúng tôi say mê nuôi dế than, dế lửa bỏ trong hộp quẹt, khi đem đi đá dế, hay hộp nhựa cho chúng có chỗ ở thoải mái. Chúng tôi cũng nuôi cá lia thia bỏ vô hũ kiếng cho chúng đá bóng hay cá bảy màu.  Chúng tôi chơi bắn bì dùng dây thun và giấy quấn và ngay cả làm những con diều giấy với hai cái đuôi thật dài, thả chúng bay cao với cuộn chỉ quấn vào ống lon.  Anh em tôi cũng có một con chó nhưng do một công nhân muốn dùng nhà vệ sinh trong nhà và tự tiện bước vô nên bị chó cắn.  Ba tôi vì không muốn gánh thêm phiền phức nên đã cho người chở con chó bỏ đi khiến cho anh em chúng tôi đi học về cảm thấy hụt hẫng và buồn rũ rượi khi biết tin.  Đó là những gì còn âm hưởng khi tôi nhớ về dòng sông của tuổi thơ.

Một thời gian sau đó, chúng tôi cùng gia đình dọn lên Saigon do Ba tôi được bổ nhiệm vào một chức vụ mới tại Tổng Cục Kiều Lộ, bỏ lại phía sau dòng sông đầy kỷ niệm với vùng trời bình yên.  Sau đó, chúng tôi lại theo gia đình dọn xuống Cần Thơ, nơi tôi đã trải qua một vài niên khóa tại trường trung học Phan Thanh Giản cùng với một số bạn mới.  Được ít năm sau, Ba tôi, thêm một lần nữa, thuyên chuyển trở về Saigon.  Trở về Saigon, anh em chúng tôi được tiếp nhận vào trường trung học Petrus Ký, một giấc mơ ấp ủ của biết bao học sinh thời đó!  Quả đúng như danh tiếng của trường, những điều mà tôi đã cảm nhận được qua cách đào tạo của các thầy cô đó là “kỷ luật” và “trình độ.”

 

Phải nói một khi đã học qua các trường tỉnh, điều mà một học trò mới như anh em chúng tôi cảm thấy ngỡ ngàng khi phải chuyển lớp lưng chừng lên Petrus Ký đó là trình độ dạy tại thủ đô khó hơn nhiều với  kỷ luật thật nghiêm ngặt!  Ngày đầu tiên đạp xe đạp vào cổng trường tôi đã học một bài học về trật tự và kỷ luật khi quan sát mọi người xung quanh:  xuống xe, xếp hàng, từ tốn dắt xe đạp đến chỗ đậu xe với mái che.  Người nào không tuân thủ, lập tức ông gác dan lực lưỡng với chỉ một mắt tóm lấy áo lôi xuống xe.  Ngẫm nghĩ lại, nếu không có ông, bọn học trò như chúng tôi sẽ làm loạn lên hết rồi!  Ngoài ra, áo sơ mi trắng phải có phù hiệu của trường mới được cho vào và tóc tai không được để dài.  Ấn tượng khởi đầu là như vậy nhưng, đáng nhớ hơn hết, đó là khu được mệnh danh “hành lang danh dự,” chỉ dành cho thầy cô và các nhân viên hành chánh của trường, học sinh nào lớ ngớ bước vào là bị giám thị “bợp tay” hay bị bắt quỳ gối ngay tại chỗ như là “chuyện thường ngày!”  Còn ở những hành lang hay cầu thang khác, tôi cũng đã từng chứng kiến cảnh giám thị “bợp tay” học sinh khiến người này chúi nhủi về phía trước.

 

Trong số các thầy cô dạy vào thời đó, người thầy khiến tôi nhớ nhiều nhất vào năm đầu tiên theo học nơi đây đó là thầy Võ văn Trưng với biệt danh “Chính Danh.” Chân ướt chân ráo ngồi vào lớp Việt Văn, tôi bị thầy kêu hỏi người bạn kế bên thế nào là “Chính Danh.”  Thì ra “Chính Danh” là người ngồi đàng sau phải canh sao cho thẳng hàng bằng cách nhìn vào ót của người ngồi phía trước!  Ngoài ra, một câu nói bất hủ của thầy khiến tôi nhớ đến giờ đó là câu “sương mù bao phủ tâm hồn tôi” đã tạo cảm hứng đặt lời tựa cho một bài viết của tôi, “Một Cõi Mù Sương.”  Dãy lớp của chúng tôi lúc đó có thiết kế giống như các băng ghế đặt trong các sân vận động, từ cao xuống thấp.  Cũng chính ở dãy lớp này vào những niên học sau đó, các bạn tinh nghịch của tôi đã phát minh ra trò chơi “giải phẫu,” bắt cóc một đứa nào còn lảng vảng khi chuông reo báo hiệu giờ nghỉ 15 phút, cả bọn đóng cửa lớp học lại và hè nhau “tuột quần” kẻ “xấu số” đó! Dĩ nhiên là người bị bắt không dễ dàng để yên mà kháng cự mãnh liệt, đôi khi đấm đá! Trò chơi này đã khiến chúng tôi rất là “khủng hoảng” khi nghe tiếng reng và nhốn nháo chạy ra như ong vỡ tổ.  Đúng là đời học sinh đầy tinh nghịch và phá như “giặc!”

Người thầy khác “gần gũi” với bọn tôi nhất, vào năm cuối, đó là thầy Trịnh Công Ngàn, thầy Chủ Nhiệm dạy môn Toán với một điểm đặc biệt là khi dạy chúng tôi, thầy không bao giờ mang theo giáo án nhưng cách dạy của thầy không từ chương mà rất là cởi mở, khuyến khích sự vận dụng trí óc để phân tích, tận tụy và theo sát với trình độ của hầu hết các học sinh.  Khi gặp thầy bên Mỹ, chúng tôi mới biết sức chịu đựng, kiên trì của thầy thật phi thường khi vừa phải dạy chúng tôi, vừa phải chăm sóc cho cô, vợ của thầy, do bị tai nạn giao thông phải nằm trên giường không di chuyển trong suốt một thời gian dài.  Cuối tuần, thầy phải đạp xe đạp cả chục cây số về quê làm rẫy để có đủ sinh kế nuôi người mẹ già.  Thầy đã mang đầy trách nhiệm trên người nhưng không bao giờ thầy than van hay sao lãng việc dạy cho chúng tôi một vốn liếng vững vàng về toán học để sau này có dịp sử dụng lại khi phải rời xa quê hương. Mặc dù sau 1975, hoàn cảnh sinh sống khó khăn như vậy nhưng thầy không hề bắt chúng tôi phải học thêm với thầy để kiếm thêm tiền phụ trội.  Hơn thế nữa, khi định cư tại Mỹ, thầy lúc nào cũng ưu tư đến hoàn cảnh sinh sống khó khăn của những học trò cũ, gởi tiền giúp hay khởi xướng những nghĩa cử rất thực tế, giúp cho các con của một người bạn vì bạo bệnh mà qua đời ở tuổi còn trẻ.

Tôi đã có những nhóm bạn rất thân tại trường Petrus Ký, vẫn còn liên lạc đến bây giờ.  Đâu là một Tôn Thất Vinh với trí nhớ phi thường và những câu chuyện kể thật dí dỏm.  Rất tiếc là bạn Vinh đã qua đời cách đây hơn một năm!  Nếu không, bao nhiêu kỷ niệm bạn nhớ được sẽ có thể được ghi lại thành một cuốn sách đầy kỷ niệm tinh nghịch của tuổi học trò!  Đâu là bạn Đoàn Ngọc Sơn, đạo mạo, chững chạc với trí thông minh thật xuất chúng!  Đâu là bạn Nguyễn Minh Trúc với tinh thần hy sinh, lãnh đạo, học giỏi, nghĩa khí và đầy kinh nghiệm thực tiễn khi phải lăn lộn sớm trong cuộc sống để mưu sinh khi còn học trung học. Đâu là bạn Trần Anh Quốc, một trong những người to con nhất lớp, hòa đồng và thân thiện với mọi người và “học và phá” đều giỏi ngang nhau.  Đâu là bạn Trần Thanh Liêm đã nổi danh rất sớm với tài diễn xuất, đóng phim và hiện nay là một giáo sư tại một đại học ở tiểu bang Tennessee.  Đâu là một Hoàng Phúc Hiển có một vóc dáng phong độ như một nhạc sĩ!  Đâu là một Trần Ngọc Sơn với biệt tài ảo thuật.  Và vô số những người bạn thật tốt, gần gũi như các bạn Trần Thanh Long, Nguyễn Trùng Khánh, Mai Đức Độ, Vĩnh Thúc, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Hy Văn, Nguyễn Lê Bảo Hà, Nguyễn Trí Thiện, Nguyễn Phạm Hoàng, Nguyễn Công Danh, Trương Thiện Thảo, Nguyễn Văn Đức và vô số các bạn khác.

 (Còn tiếp)          

                                   

                            Nguyễn Quang Đức